Tra quyền
là một môn quyền thuật của Trung quốc, Còn gọi là “Xoa
quyền”, “Sáp quyền”. Trong “Quốc kỹ luận lược” của Từ Chấn có nói: “Tra quyền
cũng có tên là Xoa quyền, vì 2 âm “xoa”, “tra”gần giống nhau”. Có lẽ môn Tra
quyền thường dùng xoa chưởng, xoa bộ rồi từ chỗ đó mà gọi môn này là “Xoa
quyền”. Cũng có người cho rằng nên gọi là “Tra quyền”, bởi môn võ này dùng
nhiều phép “tra”, chú trọng xuất thủ tức là “tra” (xòe ngón tay ra, bóp, nặn,
nhúm lấy), trong khẩu quyết đánh thương của môn này có câu “nhất tra nhị nã
(bắt) tam trát (đâm)”. Gọi Tra quyền, có thể là lấy tên một người họ Tra sáng
tạo ra môn này. Hiện nay thống nhất gọi nó là Tra quyền. Môn này thịnh hành ở
các miền Thượng Hải, Sing Piang, Kansu (Quảng tây), miền tây và nam Trung hoa,
ở các tỉnh Sơn Đông, Hà Nam, Hà Bắc, nhất là trong lớp người Hồi và được họ vô
cùng yêu thích, gọi nó là “Giáo môn quyền”. Các bài bản binh khí cũng được tăng
thêm. Do truyền ở các khu vực khác nhau nên chia ra các môn Tra quyền của họ
Trương, họ Lý, họ Mã, họ Sa. Nguồn gốc của nó không biết được sáng lập từ đời
nào, có 2 cách nói:
− Một là vào
thời Đường (hoặc nói cuối đời Minh hay cuối đời Thanh gì đó), có người dân Hồi
giáo ở Tây Vực là Tra Mật Nhĩ từ phía đông đến truyền môn võ này ở một dải
huyện Lỗ Tây Quan. Người đời sau lấy họ của người này để đặt tên cho môn võ;
Theo những võ sư của môn này thì Tra quyền cùng một nguồn gốc với 10 lộ Đàn
thoái, cả 2 đều được truyền từ Tây Vực. Phát sinh ở Quan Huyện, tỉnh Sơn Đông,
do Tra Mật Nhĩ truyền lại cho nên mới có tên như vậy. Tương truyền, vào giữa
đời Minh, có người thanh niên là Tra Mật Nhĩ sống ở Tây vực, vâng theo lời của
hoành đế tới phương Đông, xuống phương Nam để đánh dẹp giặc lùn Nhật Bản, trên
đường đi qua làng Trương Doãn ở Quan Huyện (còn có tên là thôn Nhất Lý) thì mắc
phải bệnh nặng phải ở tạm trong nhà người Hồi, được sự tận tình chữa trị và
chăm sóc mà hết bệnh khỏe mạnh trở lại. Hết lòng cảm kích, người này bèn truyền
lại cho họ một bài quyền để biểu thị sự cảm tạ. Để kỷ niệm sự việc này, người
dân Hồi ở trong vùng bèn đặt tên cho môn võ ấy là Tra quyền. Sa Đàm Phúc ở Quan
Huyện là người truyền thụ môn Tra quyền sớm nhất. Sa Lượng, con trai của ông là
tiến sĩ võ năm Ung Chính đời Thanh, đã từng đem quân tới trấn giữ ở Tây an. Sau
ông, môn Tra quyền ngày càng khuếch đại, truyền nhân chủ yếu có Lý Lão Sùng,
Thái Trường Thanh, Hoàng Bích Tân, Trương Kim Đường, Trương Kiền, Trương Kỳ
Duy. Đến cuối đời Thanh, đầu đời Dân quốc lại xuất hiện các hào kiệt võ lâm như
Dương Hồng Tu, Trương Anh Chấn, Trương Anh Kiệt, Thường Chấn Phương.
− Hai là do
phái Thiếu lâm diễn hóa mà thành (xem thêm trong “Quốc thuật sử” của Hứa Vũ
Sinh). Gần đây, theo khảo chứng của tác giả cuốn “Trung quốc Tra quyền” thì
truyện Tra Mật Nhĩ truyền dậy môn võ này thật sự không phù hợp với lịch sử mà
cho rằng vị tiến sĩ võ khoảng năm Ung Chính đời Thanh, người ở huyện Sơn Đông
quan là Sa Lượng (người đương thời tôn xưng là Sa Mật Nhĩ. “Mật Nhĩ” là ngôn
ngữ Ba tư còn lưu giữ trong dân Hồi. Có ý nghĩa là “Trưởng quan”. Tên “Tra Mật
Nhĩ” nghi là cách gọi nhầm của “Sa Mật Nhĩ” mà ra) sáng tạo nên, hình thành
trong khoảng đời Thanh, ban đầu thịnh hành ở Sơn Đông. Về sau có danh gia Tra
quyền là Dương Hồng Tu mở lớp dậy ở Tế Nam, Hoàng Bính (Minh) Tinh truyền bá ở
Hà Nam; Vu Chấn Thanh, Mã Kim Tiêu, Mã Vĩnh Thắng, xuống miền Nam truyền dạy ở
một dải Thượng Hải, Nam Kinh, Tô Châu. Trung ương quốc thuật quán năm xưa cũng
đã từng xếp Tra quyền vào khóa trình, hiện nay, môn này lưu truyền khắp nước
(T.quốc).
Môn võ này sở trường về luyện bước đi, chuyên luyện cách
tiến lui cho nhanh nhẹn, dùng chiến đấu ở nơi rộng rãi hay khoảng đất trống
trải. Sách “Kỷ hiệu tân thư” nói nhà họ Ôn có 72 đường hành quyền, cùng một
dụng ý như Tra quyền.
Mấy chục năm về trước, các võ sư thuộc phái Tra quyền là
Dương Phụng Chân, Trương Học Sinh được mời đến dạy tại dinh quan trấn thủ đất
Tế Nam. Sau đó Dương Phụng Chân được mời xuống dạy võ ở Trung hoa võ thuật hội
tại Thượng Hải. Về sau, học trò của Học Sinh là Vu Chấn Thanh được mời dạy võ
tại Trường Cao đẳng sư phạm Nam Kinh. Bạn đồng môn của Vu Chấn Thanh là Mã Cẩm
Tiêu dạy quyền thuật tại trường Đệ ngũ tỉnh lập ở Giang Tô.Tra quyền còn chia
ra luyện khí giới dài và ngắn, đơn hoặc song, cùng với đối luyệnđối luyện tay
không, đối luyện khí giới, đối luyện tay không với khí giới. Bài bản quyền cước
tổng cộng chia ra 10 đường (thập lộ Tra quyền) làm gốc, mỗi đường có 30 ~ 60
động tác. Ở mỗi đường thứ nhất và 2 còn có một đường quyền chính và phụ. Đường
thảo phụ lại có yêu cầu kỹ thuật theo một lối cương và một lối nhu, chủ yếu có:
Nhất lộ Mẫu tử, nhị lộ Hành thủ, tam lộ Phi thoái, tứ lộ Thăng (Khai) bình, Ngũ lộ Quan đông, lục
lộ Mai phục, thất lộ Mai hoa, bát lộ Liên hoàn, cửu lộ Long bãi vĩ, thập lộ
Xuyến quyền. Ngoài ra còn có tam lộ Họat quyền, tam lộ Pháo quyền, Tứ lộ Hồng quyền
và lưỡng lộ Thoái quyền.
Tra quyền coi trọng Đàn thoái, Thập lộ đàn thoái cùng với
Pháo quyền, Hoạt quyền, Hồng quyền, Thoái quyền là công phu cơ bản. Trong bài
bản quy định môn Trường quyền đã từng hấp thu nội dung bộ phận Tra quyền. Môn
này cũng được thu nhập vào trong hệ thống tài liệu thông dụng của học viện thể
dục toàn quốc.
Khí giới có nhiều loại dài ngắn đơn song khác nhau : Tra
đao, Xuân thu đại đao, Tra thương, Song đầu kỳ thương, Tra câu, Tra kiếm, Long
hình kiếm, Côn ngô kiếm, Ngũ lang côn.
Trong hệ thống Tra quyền, các kiểu động tác cơ bản của bài
bản quyền thuật và kỹ thuật diễn luyện phần lớn giống với các môn Trường quyền
khác. Phong cách diễn luyện và kỹ thuật có đầy phong thái và sức thu hút đặc
biệt.
Hệ thống kết cấu động tái cơ bản và phương pháp kỹ thuật
chiến đấu của Tra quyền có: bộ hình, bộ pháp, thủ hình, thủ pháp, thoái pháp,
giữ thăng bằng, nhẩy nhót, xoay chuyển, đánh, chọc, bổ, chặt.
Thủ pháp có: phách (bổ), cách (đỡ), thôi (đẩy), xuyên
(luồn), trừu (kéo), băng (bắn), kháo (tì), triền (quấn), xung (phóng),
cái(phủ), điêu (khuấy).
Thoái pháp (đòn chân) có: thích (đá), đàn (búng), điểm, đăng
(đạp), tảo (quét), sản (sắn), sủy (đạp ngang), câu (móc), đề (nhấc), lan
(chặn), chàng(thúc). Nhiều động tác chạy luồn, băng mình, vọt nhẩy, lạng lách
tránh dạt, di dời bốc lên, tư thế duỗi dài, động tác gọn gàng, chuyển động cấp
tốc, tĩnh lặng yên ổn, tiết tấu rõ ràng, lực phát ra thông đạt, cứng và mềm
giúp nhau, nhịp nhàng, hoàn chỉnh, bố cục rộng thoáng, tuyến đường vận động đầy
biến hóa.
Trong thực tế chiến đấu có mười chữ khẩu quyết là: súc (rút
lại), tiểu (nhỏ), miên (liên tục), nhuyễn (mềm dẻo), xảo (khéo léo), thác
(tránh, né), tốc (mau), ngạnh (cứng), thúy (dứt khoát), hoạt (linh hoạt).
Môn Tra quyền chú trọng lối đập, bung, gẩy, đánh, tránh dạt
mở khép, động tác linh hoạt, mau lẹ vững chắc. Nó có lối đánh nhảy cao, đá lẹ
thật nhanh nhẹn. Những thế căn bản là nhảy, đá, xoay trở lẹ làng. Khi luyện cần
đạt tới mức tâm ổn, mắt sáng rõ, tinh thần và hình thái hòa hợp làm một. Tâm ý
hòa hợp với mắt nên thường sáng tỏ. Tâm ý hòa hợp với đôi tay nên thường linh
hoạt, tâm ý hợp với cánh tay nên thường có lực, tâm hợp với thân nên thường ở
chỗ tinh. Nắm tay cuộn lại như chiếc bánh cuốn, bàn tay (chưởng) tựa như ngói
xếp. Tay đấm ra như hổ rời hang, thu tay về thì ôm vào trong lòng.
Trong quá trình vận hành bài bản môn Tra quyền, động tác của
thượng chi yêu cầukhi xung quyền, đánh chưởng, cùi chỏ hơi co, làm cho cánh tay
thành dạng hình vòng cung, mặt nắm đấm hơi xoay vào trong cho mắt nắm tay (phía
hổ khẩu) hướng lên trên, tục gọi là “tà sáp nhất cán kỳ” (cắm xéo một cán cờ),
làm cho Tra quyền có được nét đặc sắc của sự tròn trịa khi dang mở động tác;
Động tác hạ chi chú trọng tính co duỗi của thoái pháp, trong mỗi một đường quyền đều có vài
lần đá đàn thoái, sủy thoái, trắc sủy, đằng không tiễn đàn, hình thành đặc điểm
“Thủ tự lưỡng phiến môn, Toàn bằng túc đả nhân” của Tra quyền. Nhìn từ hình
thái động tác hoàn chỉnh thì Tra quyền đại giá tử mở rộng biên độ của động tác
làm chủ thể, trong đó có động tác nhỏ hàm xúc xen cài, làm cho bài bản thể hiện
ra sự đặc sắc của sự xen kẽ giữa khép và mở, trong dài có ngắn. Ngoài ra, động
tác của Tra quyền nhấn mạnh đến tay chân cùng phát ra, dưới đá trên đánh. Chú
trọng tay đi tới thì bộ cũng tới, cùng
lên cùng xuống. Trong quá trình động tác, các bộ vị ngực, eo, bụng dùng
lối vặn, chuyển, hợp, dang mở để quán xuyến tứ chi, gia tăng tốc độ vận hành
của chi thể, tăng lớn phạm vi hoạt động của động tác. Đồng thời đầu chuyển theo
thế, mắt theo tay nhìn, đã tạo thành phong cách quyền thuật ngoại hình ngay
ngắn, trong ngoài hợp nhất, gồm đủ cả hình và thần.
Khái quát về đặc điểm của Tra quyền có 4 điểm như sau:
1. Tư thế duỗi
dài, động tác gọn gàng. Phạm vi hoạt động của các khớp tay chân khá lớn, yêu
cầu đối với tính mềm dẻo của cơ bắp và tính linh hoạt của các khớp xương khá
cao, giúp cho sự mềm và dai của cơ bắp, tính linh hoạt của các khớp được phát
triển.
2. Chuyển động
thì mau, tĩnh lặng thì ổn định, đạt tới mức quyền đánh ra như sao băng, mắt
sáng như điện, eo chuyển tựa rắn đi, chân cắm như dùi khoan, đi như gió, đứng
vững như đinh đóng. Trong quá trình luyện công, bất kể là động tác lớn hay thủ
pháp nhỏ, đều cần phải vô cùng mau lẹ, nhanh nhẹn, đồng thời trong khi đang
xoay chuyển, tránh né mau chóng khác thường hoặc khi đang tiến hành các phương
pháp kỹ thuật phóng tới, đạp, đá, lại có thể đột nhiên lặng dừng mà ổn định.
3. Phát lực thông
thuận, tiết tấu rõ ràng, trình tự của
việc phát lực trong môn Tra quyền là vùng thượng chi, bắt đầu ở eo, truyền đến
vai, cùi chỏ, đạt tới tay; hạ chi thì khởi từ hông, truyền đến đầu gối, đạt tới
bàn chân. Cùng lúc với sự hoàn thành quá trình phát lực này, còn cần đạt được
sự rõ ràng về tiết tấu, tức là trong toàn bộ quá trình diễn luyện bài bản, yêu
cầu có sự tương trợ lẫn nhau giữa cứng và mềm, nhanh và chậm xen nhau, đi liền
một mạch, tự nhiên thông thuận.
4. Nhịp nhàng
hoàn chỉnh. Bên trong và ngoài cơ thể cần nhịp nhàng hoàn chỉnh, cần phải có sự
tương ứng trên dưới, liền lạc trước sau đối với thủ pháp, thân pháp, bộ pháp
trong động tác. Có một số động tác khá phức tạp như các kỹ thuật động tác
chuyển thân, vỗ chân, vọt nhẩy, trồi sụp, chuyển vặn cần phải có năng lực giữ
thăng bằng khá tốt, đồng thời thần của mắt, ý thức hơi thở cần phải phối hợp
mật thiết với động tác để đạt tới mắt nhìn tới là tay đi tới, tinh thần và hình
thể hợp lại làm một. Cách luyện theo kiểu phối hợp bên trong với bên ngoài này
giúp tăng cường tác dụng điều tiết của đại não, làm cho sự hô hấp và cơ quan
nội tạng đượcđược rèn luyện.
Sau khi nước cộng hòa
nhân dân Trung hoa thành lập, Tra quyền được xếp vào tiết mục biểu diễn
và thi đấu của võ thuật toàn quốc. Trương Văn Quảng, một danh gia truyền thụ
môn Tra quyền ở Học viện thể dục Bắc kinh đã biên soạn xuất bản nhiều bộ sách
nói về môn Tra quyền, thúc đẩy cho môn này được phổ cập và phát triển.
Đặc điểm kỹ thuật của Tra quyền, quy nạp có 3 điều như
sau:Tra quyền có 3 đặc điểm:
1) Tiết tấu rõ
ràng, chuyển động mau, đứng dừng lặng yên.
2) Động tác đi
mau, đường quyền rõ ràng.
3) Thế chỉnh tề
lực đi thuận, mắt nhanh tay lẹ.
Yêu cầu đạt đến “đi như gió, đứng như đóng đinh, vươn lên
như vượn, rơi xuống như chim ưng”. Chuyển động như mãnh hổ, lặng dừng như núi
Nhạc, nhanh chậm xen nhau, cứng và mềm nâng đỡ nhau, chiêu pháp rõ ràng, chuyển
mau dừng đột ngột. Bất kể tấn công phòng thủ tiến lui tuy nhanh mà không loạn,
chậm mà không tản mát, tư thế ngay ngắn thư duỗi. Tay mắt thân bộ đều cần trên
dưới theo nhau, trước sau liền nhau, trong ngoài phối hợp với nhau, lại còn có
“tam tiết”, “lục hợp”, “thập yếu” (tức là 10 chữ yếu quyết tấn công và phòng
thủ : súc, tiểu, miên, nhuyễn, xảo, thố, tốc, ngạnh, thúy, hoạt). Trong bài
quyền có nhiều động tác luồn chạy, nhảy, vọt lên cao, cất lên sụp xuống gập
chuyển.
Post a Comment